Thứ Bảy, 24 tháng 2, 2018

Site XD thiết kế viện bảo tàng Việt Nam

bảo tàng điêu khắc chăm



Các chương trình GD được ngoại hình cho từng đối tượng biệt lập như người lớn, trẻ thơ, thanh niên, sinh viên, nghiêm đường, người cao tuổi, nhóm gđ, nhóm người thiệt thòi (khiếm thính, mịt, dị tật...) loại hình của các hđ giáo dục cũng rất đa dạng: Các chương trình tham quan theo chủ đề, triển lãm chuyên đề, các lớp học ngắn hạn, lớp học tăng, các cuộc thi, các trò chơi tập thể, doanh nghiệp các sự kiện văn hóa- nghệ thuật… . Phương châm của các chương trình hoạt động trong bảo tàng là hấp dẫn, có ích, niềm vui và sáng tạo.

Tại các bảo tồn đã hình thành phòng GD, GD - Công chúng; hay Tuyên truyền- giáo dục hoặc có phòng ban, cán bộ chuyên trách về công việc GD. Cùng với đó là việc công ty các hoạt động dành cho công chúng mang tính giáo dục như tổ chức các hoạt động ảnh hưởng, trải nghiệm cho các đối tượng (cốt tử là học trò) duyệt hình thức phòng Khám phá (bảo tồn Dân tộc học VN, bảo tàng Phụ nữ Việt Nam, bảo tàng Mỹ thuật VN, bảo tồn Hồ Chí Minh…).

Đây là thể tích giúp học sinh trải nghiệm, liên quan, bàn bạc, bàn bạc, học tập, đoàn luyện các kỹ năng và diễn đạt sự sáng tạo của mình qua các hđ học mà chơi, chơi mà học theo hướng GD hăng hái. Những hđ này gắn với ND trưng bày của mỗi bảo tàng và gần gũi với một số môn học tại nhà trường. Ngoài ra, để tạo sân chơi hữu dụng cho con trẻ, các bảo tàng còn công ty những sự kiện mang tính tập thể với những trò chơi trí não thu hút sự tham dự đông đảo của các em thiếu nhi nhân Tết Thiếu nhi 1/6, Tết Trung thu... chẳng thể không nói đến đến mô hình Câu lạc bộ “Em yêu lịch sử” và “Giờ học lịch sử tại bảo tàng” của bảo tàng Lịch sử quốc gia, mô hình này xây dựng thương hiệu từ năm 2007 và chóng vánh trở thành sân chơi bổ ích, lý thú, vấn học sinh phổ biến trên địa bàn HN. hoạt động mang tính “thúc đẩy”, lại được doanh nghiệp theo từng chuyên đề, Câu lạc bộ này đã trở nên điểm đến quyến rũ, tạo cho các em chủ động tìm hiểu vấn đề dựa vào sự gợi mở của thầy giáo từ những hiện vật di sản cụ thể sinh động. Điều này đã gây hứng thú học tập, phát huy tính hăng hái và sáng tạo của học sinh, củng cố và bổ trợ tri thức cho các giờ học nội khóa, tạo môi trường và không khí học tập mới trong môn Lịch sử ở trường phổ biến, giúp các em yêu mến, hứng, mê say tìm hiểu đối với môn Lịch sử ở trường nói riêng và lịch sử dân tộc nói chung.
ngoại giả, cho dù đã có những cách tân tích cực từ nhận thức cho đến hoạt động như đã nói ở trên (trừ rất ít) thì nhìn chung các bảo tàng ở Việt Nam vẫn chưa thật sự cuốn được công chúng, đặc biệt là giới trẻ, trong đó sự thiếu hụt, trống vắng các chương trình giáo dục công chúng tại bảo tàng là một trong những thách thức làm giá rẻ trị bảo tồn và vai trò của bảo tàng ở nước ta.

Vài nét về công tác GD ở các bảo tàng Việt Nam

Ở Việt Nam, nhận thức về hoạt động GD của bảo tồn giờ cũng đã có những chuyển biến đáng ghi nhận, đó không còn là tuyên truyền – truyền bá một chiều những nội dung được chuẩn bị trước của bảo tồn tới công chúng. định nghĩa “tuyên truyền” dần được thay thế bằng định nghĩa “giáo dục”, nghĩa là thay đổi cách tiếp cận để bảo tàng có thể có nhiều hoạt động mang tính giáo dục rộng rãi và chất lượng cao hơn nhằm cuộn khách đến với mình và đóng góp nhiều hơn cho tầng lớp.

Về căn bản các chương trình GD của bảo tồn đều tạo theo chủ đề của các bộ sưu tập của bảo tồn, tuy nhiên, cứ vào nhu cầu của công chúng, các hoạt động GD còn mở rộng ra các lĩnh vực khác như: triết học, văn chương, cá tính, diễn kịch hoặc các nội dung có tính thực tế gắn với đời sống hiện đại. Đến bảo tồn, trẻ mỏ được học vẽ, sáng tác truyện tranh, hoạt hình, chụp ảnh, quay phim và tự làm những phim ngắn; có thể đăng ký những lớp học làm làm vườn, làm đồ thủ công, nấu bếp, làm bánh ... Nhiều câu lạc bộ đã được thành lập tại nhiều bảo tồn để đáp ứng nhu cầu nghiên cứu, học tập, giao du theo nhóm rất hiệu quả.

Và rốt cục, công việc giáo dục của bảo tàng có đạt được hiệu quả hay không, Không thể không nói đến vai trò của các cán bộ GD, để đích thực là cầu nối giữa bảo tàng và công chúng, các cán bộ giáo dục cần tự trau dồi và tăng năng lực. Họ cần được tập huấn để trở thành nhiều năm kinh nghiệm hơn, làm việc có tính sư phạm hơn để có thể công ty được những chương trình giáo dục hạp với từng đối tượng công chúng khác nhau, bởi giáo dục của bảo tàng chẳng phải chỉ là giáo dục trẻ mỏ dù rằng trẻ thơ có thể là lượng khách tham quan chính của bảo tồn.


Ở các nước có ngành bảo tàng tăng trưởng, đa số các bảo tồn đều có trọng điểm, phòng hoặc bộ phận chuyên trách hđ GD. Các cán bộ giáo dục có một vai trò rất quan trọng, họ là những người được tập huấn, có sự hiểu biết về bảo tàng và các sưu tập bảo tàng, có nhiệm vụ giúp công chúng - đặc thù là trẻ em học và sử dụng bảo tàng. Họ càng ngày càng được tham dự tích cực hơn vào giai đoạn doanh nghiệp trưng bày, trực tiếp vào việc kiểu dáng ý tưởng, chủ đề, nội dung, các giải pháp trưng bày... tức là các khâu quan trọng nhất của công việc doanh nghiệp triển lãm hiện vật bảo tồn.

Từ chỗ là các sưu tập được cất giữ để tích trữ vì giá trị tiền tệ của hiện vật, hoặc là những sưu tập hiện vật lạ được Chi tiết vì tính quí hiếm, độc nhất, bảo tồn đã có mặt trên thị trường, PT, theo nghĩa rộng nhất được hiểu là “cơ quan được ủy thác giữ gìn các của cải của con người và vì ích trong mai sau của loài người. Giá trị của nó là ở sự phục vụ xứng đáng cho đời sống xúc cảm và ý thức của loài người…”.(1)

Cùng với công đoạn tăng trưởng lịch sử, bảo tàng có một vai trò càng ngày càng lớn trong tầng lớp, chức năng của bảo tồn luôn được bổ sung, cung cấp các nhu cầu từng lớp. Ngày nay, bảo tồn nhiều về hình thức, tính chất, quy mô, loại hình công ty nhưng vẫn thực hành các chức năng mang tính truyền thống và các chức năng mới. mặc dầu còn tồn tại một số quan điểm khác nhau, nhưng cơ bản các quan điểm đều hợp nhất bảo tàng có các chức năng từng lớp sau: chức năng nghiên cứu khoa học, chức năng giáo dục kỹ thuật, chức năng bảo tồn di sản văn hóa, chức năng tài liệu hóa kỹ thuật, chức năng thông báo, chức năng tiêu khiển và hưởng thụ văn hóa. Trong đó, nghiên cứu kỹ thuật và giáo dục công nghệ là hai chức năng cơ bản thường được nhắc đến.

Để thực hiện tốt chức năng giáo dục, nhằm phát huy tốt nói cách khác vai trò của bảo tàng trong đời sống xã hội, để bảo tàng thật sự hấp dẫn, thu hút càng ngày càng đông hơn khách tham quan, các bảo tàng cần không ngừng đổi mới, phổ biến hóa các hđ, hướng tới mục tiêu đáp ứng công chúng một cách hoàn hảo. Bởi tính GD không chỉ thuộc về những người làm công tác giáo dục. Để tạo được môi trường tốt cho khách tham quan, học tập, các trưng bày của bảo tàng phải hấp dẫn và có tính giáo dục, gắn với nhu cầu của xã hội đương đại, nhu cầu của công chúng. thông báo về cuộc trưng bày phải được chuyển tới công chúng trước khi họ đến với bảo tàng để họ có sự chuẩn bị trước về những điều họ sẽ được học. Các bài viết trưng bày phải ngắn gọn, dễ hiểu và khuyến khích người đọc. bảo tàng phải tạo cho họ sự thuận lợi và tha hồ khi họ đến thăm bảo tàng …
Với đối tượng công chúng là đời trẻ học đường, cùng với việc kiến lập khoảng trống văn hóa hợp để học sinh được dự hoạt động sáng tạo tại bảo tàng, thì sự phối hợp và liên kết chặt đẹp giữa các chương trình giáo dục học trò của các bảo tàng với ngành giáo dục, đặc biệt là các sở GD, các dài, chắc chắn sẽ giúp cho các chương trình giáo dục đạt ý nghĩa cao hơn.

http://thietkebaotang.com/

bảo tàng hồi ức chiến tranh hàn quốc tại Thành phố Bắc Ninh Với sự thay đổi về nhận thức từ chỗ bảo tàng lấy hiện vật làm trung tâm sang lấy cộng đồng xã hội làm trọng tâm, vai trò GD trong bảo tàng ngày một được trọng, tương tác mạnh mẽ, hăng hái đến các hoạt động khác của bảo tàng. Nó được coi là cơ sở xác lập chiến lược hđ PT của mỗi bảo tồn, đồng thời, căn cứ vào ưu thế, đặc điểm biệt lập và chức năng của mỗi bảo tàng cụ thể để đa dạng hóa các loại hình hoạt động cung cấp nhu cầu chính đáng của công chúng.
Ngày nay, hđ truyền bá trí thức - giáo dục của bảo tồn kết thúc là sự chuyển giao một chiều từ người giáo dục (chỉ dẫn, thuyết minh viên) sang người được GD (khách tham quan) mà là sự đàm đạo hai chiều, tương tác thúc đẩy lẫn nhau. Người ta không chỉ quan hoài đến việc bảo tồn “dạy” gì cho công chúng, mà quan trọng hơn là “công chúng học bằng cách trải nghiệm như thế nào”. Ở đây, công chúng là người học “chủ động” chứ kết thúc là người nghe “thụ động” nữa. Công chúng được tiếp cận nhiều chiều để tự rút ra những trải nghiệm, tự đúc kết những bài học, những kiến thức mới cho mình chứ ko phải chỉ một chiều.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét